Tại Việt Nam, việc áp dụng chương trình học STEM còn khá nhiều bất cập. Với kinh nghiệm trong ứng dụng phương pháp giáo dục STEM vào giảng dạy tại Anh, Hội Đồng Anh đã kết hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo Việt Nam phổ biến việc giảng dạy STEM vào chương trình học chính quy tại các trường trung học. Ngoài ra, Tổ chức giáo dục này còn hợp tác với các đơn vị trường học để thực hiện những buổi hội thảo chia sẻ kinh nghiệm phát triển giáo dục STEM toàn diện trong phạm vi nhà trường.
Cách hiểu đúng về phân nhánh kỹ thuật trong STEM
Trong quá trình ứng dụng STEM, một trong những câu hỏi phổ biến được đặt ra là: Cách tích hợp phân nhánh kỹ thuật trong STEM vào giảng dạy. Với kinh nghiệm 18 năm nghiên cứu về giáo dục khoa học tại Đại học Sheffield Halam và tham gia các dự án thay đổi chương trình học theo hướng tích hợp cho giáo viên và học sinh ở các nước Đông Nam Á, ông Mark Windale cho rằng, hướng Kỹ thuật trong STEM không nhất thiết phải là một môn học được nhà trường đưa vào giảng dạy chính thức. Kỹ thuật trong STEM có thể được lồng ghép thông qua kỹ năng và phương pháp mà học sinh giải quyết vấn đề được giáo viên chuẩn bị. Tức là, phân nhánh này không hẳn là những kiến thức học thuật và kỹ năng cần ghi nhớ, mà chính là những tình huống, vấn đề mà học sinh cần giải quyết Kỹ thuật không nhất thiết phải là một môn trong nhà trường mà được đưa vào giáo dục STEM thông qua cách học sinh giải quyết vấn đề mà giáo viên đưa ra.
Thực trạng STEM tại Việt Nam
Hiện nay, nhà nước đã ban hành nhiều chính sách nhằm nâng cao hiệu quả của giáo dục STEM. Đặc biệt là Chương trình Giáo dục phổ thông mới được ban hành kèm Thông tư số 32/2018/TT-BGDĐT ngày 26/12/2018, vai trò của giáo dục STEM thể hiện ở những điểm sau: Có đầy đủ các môn học STEM; cải thiện rõ rệt vị trí của giáo dục tin học và giáo dục công nghệ; Yêu cầu dạy học tích hợp và đổi mới phương pháp giáo dục của Chương trình GDPT mới, tạo điều kiện tổ chức các chủ đề STEM trong chương trình môn học, góp phần phát triển năng lực vận dụng kiến thức liên môn giải quyết các vấn đề thực tiễn cho học sinh;
Tính mở của Chương trình GDPT mới cho phép một số nội dung giáo dục STEM có thể được xây dựng thông qua nội dung giáo dục của địa phương, kế hoạch giáo dục của nhà trường và những hoạt động giáo dục được xã hội hoá.
Với sự tích cực triển khai chương trình học STEM của Bộ Giáo dục tưởng chừng sẽ mang lại kết quả khả quan, tuy nhiên giáo dục STEM tại các trường dường như chỉ dừng lại ở bề mặt của “tảng băng trôi”. Qua đó, chúng ta nhận thấy cần có một chương trình cấp quốc gia, xác định rõ và cụ thể mục tiêu của đất nước khi triển khai giáo dục STEM.
Từ đó, phân công nhiệm vụ cho các bên liên quan bao gồm: Các tổ chức nghiên cứu sẽ xác định nhu cầu về kỹ năng, năng lực và các lĩnh vực STEM phục vụ cho việc phát triển kinh tế – xã hội quốc gia; Chính phủ xây dựng chương trình STEM quốc gia, xây dựng tầm nhìn và mục tiêu của giáo dục STEM; Các trung tâm Giáo dục STEM tham gia liên kết với các trường học, phát triển chương trình và các nguồn lực để đào tạo và phát triển chuyên môn cho giáo viên khoa học giảng dạy tại các trường phổ thông; Các phòng thí nghiệm quốc gia cung cấp cơ sở vật chất, các viện nghiên cứu giới thiệu những nhà khoa học để làm đại sứ STEM…
Kinh nghiệm giảng dạy chương trình học STEM tại Anh
Vương quốc Anh là một trong những nền giáo dụng đã ứng dụng chương trình học STEM rất hiệu quả với mục tiêu tạo ra nguồn nhân lực nghiên cứu khoa học chất lượng cho nước Anh. Các trường học ứng dụng STEM tốt rất chú trọng vào khâu tuyển dụng và đào tạo giáo viên giảng dạy STEM. Trong đó, các giáo viên phải hiểu rõ rằng, dạy tích hợp không phải là một giáo viên dạy nhiều môn cùng lúc mà chính là đặt trọng tâm vào sự kết hợp giảng dạy giữa các giáo viên với chuyên môn khác nhau. Nghĩa là các giáo viên cần hợp tác để cùng xây dựng bài giảng nhằm giúp học sinh có thể vận dụng kiến thức và kỹ năng của nhiều môn vào giải quyết một vấn để với mức độ phức tạp khác nhau.
Bên cạnh đó, phân loại trình độ giáo viên cũng chiếm vai trò rất quan trọng để nhà trường dễ dàng phân nhóm các giáo viên. Về cơ bản có bốn cấp giáo viên, thứ nhất là thử (try things out) làm một vài thí nghiệm khoa học nhỏ trình diễn cho học sinh; Thứ hai là tham gia một dự án khoa học (engaging in projects) dài hơi hơn, thu hút các giáo viên và học sinh cùng thực hiện; Thứ ba là xây dựng một lớp học STEM giống như câu lạc bộ với các hoạt động khoa học thường xuyên; Thứ tư là các giáo viên dạy các môn khác nhau cùng viết giáo trình cho từng môn học để học sinh có thể trải nghiệm và ứng dụng STEM ở bất cứ môn nào. Thúc đẩy phong trào giáo dục STEM bằng các hoạt động như câu lạc bộ, ngày hội, đại sứ STEM, ngày tham quan các phòng thí nghiệm, nhà máy…
Mặt khác, phát triển cơ sở vật chất hỗ trợ cho việc dạy và học không chỉ cần đầu tư từ ngân sách nhà nước mà còn từ phía khu vực tư nhân. Ở Anh, các tập đoàn tư nhân lớn đầu tư hơn tám triệu USD cho chương trình giáo dục STEM quốc gia.
Đối với các quốc gia đang phát triển, việc ứng dụng chương trình học STEM vào giảng dạy cho học sinh là một bước đi lớn và cần được chú trọng về lâu dài. Việc không ngừng tích lũy những kinh nghiệm về giáo dục STEM sẽ vừa là động lực, vừa là thách thức để nền giáo dục Việt Nam đến gần hơn với sự hội nhập sâu rộng trong môi trường quốc tế.
Comments are closed for this post.